GÓC HOÀI NIỆM
Nhớ đêm về xóm Bồ
09:34 | 10/12/2012
HỒ XUÂN MÃN
(AHLLVTND, Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)
Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.
Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.
Đồng chí Hồ Xuân Mãn, Bí thư tỉnh uỷ, thăm và giao nhiệm vụ cho lãnh đạo xã Hồng Thuỷ - Ảnh: internet
Lúc đó tôi là Trưởng Công an, cùng với lực lượng xã đội Phong An (Phong Điền) nhận nhiệm vụ phối hợp với du kích xã Phong Sơn tổ chức, nghiên cứu địa bàn dẫn đường đưa Trung đoàn 1 Sư 324 do anh Phan Thỏa làm Trung đoàn trưởng (nay đã nghỉ hưu sống ở Đông Hà - Quảng Trị) về địa bàn hoạt động của mình.
Đó là công việc không hề đơn giản, bởi ngoài dẫn đường, tìm nơi trú quân, đặt trận địa cối 120 ly..., chúng tôi còn được giao nhiệm vụ phải dựa vào dân để lo mọi thứ từ hậu cần, thuốc men, tải thương, chăm sóc thương binh, mai táng liệt sĩ... cho cả Trung đoàn.
Trên thực tế lực lượng du kích, an ninh chúng tôi thời điểm đó không nhiều. Cả Phong An và Phong Sơn điểm lại chỉ có chừng 10 người nhưng nhờ chú trọng xây dựng lực lượng tại chỗ nên hậu thuẫn cho chúng tôi là 2 chi bộ, 2 chi đoàn thanh niên, 2 đội du kích và một số an ninh mật hoạt động hợp pháp trong lòng địch.
Chính họ là tai mắt, đầu mối, phối hợp công tác và chở che cho chúng tôi bám trụ địa bàn và sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới khi được Đảng và cách mạng tin tưởng giao phó, nhờ vậy mà chỉ trong vòng 1 tuần triển khai chúng tôi đã lo liệu, chuẩn bị đầy đủ mọi thứ.
Đêm trước ngày ký hiệp định Paris, Trung đoàn 1 từ chiến khu theo dẫn đường của chúng tôi đã chiếm lĩnh trận địa. Đúng 23 giờ đêm 26/1/1973 quân ta tổ chức đánh chiếm Phân Chi khu quân sự xã Phong An (đóng ở trụ sở UBND xã Phong An hiện nay) và tiếp đó đánh chiếm mục tiêu bắc cầu An Lỗ, đẩy lực lượng cảnh sát dã chiến, lực lượng địa phương quân tháo chạy qua vùng chùa Long Quang thuộc địa phận của thị xã Hương Trà bây giờ.
6 giờ ngày 27/1/1973. Sau khi Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng đồng loạt phát thông báo Hiệp định Paris bắt đầu có hiệu lực thì cả một miền dọc sông Bồ từ Hiền Sỹ đến An Lổ rợp cờ Mặt trận dân tộc giải phóng.
Bộ đội và nhân dân vô cùng phấn khởi vì nghĩ rằng sau nhiều năm chìm trong máu lửa của chiến tranh, quê hương đã có hòa bình, dù chưa trọn vẹn!
Trong những ngày ngắn ngủi đó, theo chỉ đạo của trên, chúng tôi đã gấp rút tổ chức bộ máy quân quản để lãnh đạo và chỉ đạo nhân dân đấu tranh buộc địch thi hành hiệp định Paris. Và sự ngây thơ đó đã bị trả giá!
Một tuần sau, địch tung đại đội Biệt động quân đánh thăm dò, thấy ta phản ứng yếu ớt nên 2 ngày sau chúng đã quyết định tung Tiểu đoàn Biệt động quân và Đại đội Cảnh sát dã chiến có xe tăng yểm trợ tiến hành phản kích và đã đẩy toàn bộ lực lượng của ta ra khỏi địa bàn Phong An!
Chưa dừng lại, chúng tiếp tục truy kích. Chiến sự nổ ra ở khu vực khe nước nóng Thanh Tân. Thấy Trung đoàn 1 thương vong nhiều, Quân khu Trị Thiên - Huế điều Trung đoàn 3 (do anh Võ Chót làm Trung đoàn trưởng, sau này là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh QK4) về thay thế và tạo nên phòng tuyến Phong Sơn (cuối năm 1973, Trung đoàn 4 do anh Nguyễn Quốc Khánh làm Trung đoàn trưởng được Quân khu Trị Thiên - Huế cử về thay thế Trung đoàn 3).
Sau khi tái chiếm Phong An, địch tiến hành bình định, thanh lọc và với sự chỉ điểm của bọn gián điệp, đội ngũ cơ sở hợp pháp của ta bị lộ nên chúng đàn áp rất khốc liệt.
Đến mãi bây giờ tôi vẫn không thể nào quên tấm gương kiên trung của các chị Hoàng Thị Quả (Bí thư chi bộ hoạt động hợp pháp), chị Nguyễn Thị Bê (du kích mật) và chị Giãnh (du kích mật). Cả 3 chị đều ở độ tuổi thanh xuân đã bị chúng bắt, hãm hiếp, đánh đập hành hạ rất dã man nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, không hé một lời.
Bất lực, bọn chúng quyết định thủ tiêu bằng cách trói cả 3 chị thành một chùm rồi ném xuống cầu An Lổ. Hai chị Hoàng Thị Quả, Nguyễn Thị Bê hy sinh, còn chị Giãnh may mắn thoát chết nhờ dây trói bị đứt, sông Bồ lại vào mùa kiệt nên khi tỉnh dậy chị Giãnh đã bò được vào bờ (hiện chị còn sống ở thôn Phò Ninh, xã Phong An).
Trước tình hình như thế, thực hiện chủ trương của Huyện ủy Phong Điền, một mặt chúng tôi tìm đường giúp Trung đoàn 1 rút quân (khổ nhất là chuyển đại đội cối 120 ly) và mặt khác lực lượng của 2 xã Phong An, Phong Sơn phải tìm mọi cách đưa số cơ sở, nhất là đảng viên, cốt cán bị lộ ra vùng giải phóng và gần 20 gia đình cơ sở cách mạng đã kịp thoát vòng vây giặc, lập nên làng giải phóng tại Tam Dần.
Sau khi Trung đoàn 1 rút lui, số anh em du kích, an ninh ở Phong An còn lại rất ít. Thôn Phò Ninh thời điểm có tôi, anh Đợi, anh Minh, anh Kiếm; ở thôn Vĩnh Hương có các anh: Quyền, Cầu, Rạm, Hùng. Chúng tôi đào hầm ở các rú để bám dân, bám địa bàn, còn địch thì cho xe cày ủi vùng giáp ranh và tiến hành bình định các thôn. Để thể hiện quyền kiểm soát chúng buộc các nhà phải sơn, kẻ lên tường hoặc mái lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Bị địch khủng bố, ngoài số bị bắt, số cơ sở còn lại phải chạy trốn khắp nơi, đặc biệt có chị Châu Thị Thỏn, Bí thư chi bộ xã Phong Sơn (cơ sở nuôi dưỡng nhà văn Nguyễn Quang Hà, nguyên TBT Tạp chí Sông Hương) và mẹ Trần Thị Con, Chi ủy viên Chi bộ Phong Sơn (mẹ vợ của Bác sĩ Dương Quát nay nghỉ hưu ở Đông Hà - QuảngTrị).
Sau hơn nửa tháng kiếm tìm, cuối cùng chúng tôi được chị Nuôi, một đảng viên hợp pháp ở xóm Bồ báo cho biết đã liên lạc được với chị Châu Thị Thỏn, mẹ Trần Thị Con và cả nhà họ hiện đang trú trong nhà của chị.
Xóm Bồ là vùng lõm của thôn Bồ Điền xã Phong An, nằm phía dưới QL1 và tiếp giáp với xã Phong Hiền nên địch ít chú ý. Thế là trong đêm, từ Phò Ninh tôi và anh Kiếm cắt đường tìm về xóm Bồ để đưa cả hai gia đình ra vùng giải phóng. Thấy nhà chị Nuôi đỏ đèn - tín hiệu an toàn, chúng tôi xâm nhập và tổ chức đưa họ đi. Cuộc giải cứu 2 gia đình diễn ra trong lặng lẽ.
Vì không có giao liên dẫn đường nên tôi và anh Kiếm không biết điểm nào có địch phục kích để mà tránh, trong khi đó trên tuyến QL1, quãng từ An Lỗ ra KM 23 địch bố trí nhiều điểm chốt chặn.
Nhờ thông thuộc địa hình, thay bằng trở lại con đường đã đi, 2 chúng tôi quyết định từ xóm Bồ ngược ra phía bắc vượt qua trảng cát Phong Hiền rồi men theo tuyến giao liên của Quảng Điền để đưa họ lên Vĩnh Hương.
Đó là đêm trăng rất sáng. Mọi vật rõ mồn một, nhất là khi qua trảng cát mà rú đã bị cày nát ở Phong Hiền. Nếu địch phát hiện, chắc chắn chết nhiều hơn sống. Dù có hy sinh cũng phải qua, nếu chần chừ không đưa gia đình chị Thỏn và mẹ Con trốn thoát thì chắc chắn họ sẽ bị địch thủ tiêu như chị Quả, Chị Bê. Chị Châu Thị Thỏn là vợ liệt sĩ có 2 con đứa con trai chưa đầy 10 tuổi. Còn mẹ Trần Thị Con, chỉ có mình Hiền là con gái, lúc đó chừng 15 tuổi.
Để vượt qua trảng cát, tôi đi trước và cõng cháu Đức, anh Kiếm đi sau cùng, cõng cháu Thế. Số còn lại đi giữa, phòng thất lạc.
Cả đoàn lặng lẽ đi trong đêm, đến gần nửa đêm về sáng thì đến QL1, đoạn KM23. Dừng lại, tôi băng qua đường quan sát. Thấy không có động tĩnh gì mới quay lại cõng cháu Đức và dẫn đoàn cùng đi. Mãi đến 5 giờ sáng, sau khi băng qua rất nhiều đồi, đoàn chúng tôi mới tới được rú Vụng Côm. Đây là nơi anh em du kích Vĩnh Hương hay ở, vì sợ bị vấp phải mìn nên không dám vào. Ngồi đợi một lúc mới thấy anh Cầu ra ngụy trang đường vào căn cứ nên tôi gọi. Anh Cầu mừng quá, hỏi ngay: ai đi sau mà đông rứa, lại còn có cả con nít?
Suốt một ngày ở lại đây, đến tối, tôi bắt được liên lạc và đưa 5 người về vùng giải phóng Phong Sơn. Sau khi bàn giao họ cho anh Tuy giao liên, tôi quay trở lại Phong An tiếp tục bám trụ cho đến ngày quê hương giải phóng.
Mới đó mà đã gần 40 năm...
Cháu Đức đêm nào tôi còn cõng trên lưng nay đã là Thượng tá, Thị đội trưởng Hương Trà. Em Hiền đã trở thành bác sĩ và có cháu nội, cháu ngoại...
Chuyện đã lâu nhưng với tôi kỷ niệm của tình quân dân ấy vẫn đong đầy, vì ngoài trách nhiệm nó còn thể hiện tình yêu thương với đồng chí, đồng đội, nhất là lúc khốn khó.
H.X.M
Đó là công việc không hề đơn giản, bởi ngoài dẫn đường, tìm nơi trú quân, đặt trận địa cối 120 ly..., chúng tôi còn được giao nhiệm vụ phải dựa vào dân để lo mọi thứ từ hậu cần, thuốc men, tải thương, chăm sóc thương binh, mai táng liệt sĩ... cho cả Trung đoàn.
Trên thực tế lực lượng du kích, an ninh chúng tôi thời điểm đó không nhiều. Cả Phong An và Phong Sơn điểm lại chỉ có chừng 10 người nhưng nhờ chú trọng xây dựng lực lượng tại chỗ nên hậu thuẫn cho chúng tôi là 2 chi bộ, 2 chi đoàn thanh niên, 2 đội du kích và một số an ninh mật hoạt động hợp pháp trong lòng địch.
Chính họ là tai mắt, đầu mối, phối hợp công tác và chở che cho chúng tôi bám trụ địa bàn và sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới khi được Đảng và cách mạng tin tưởng giao phó, nhờ vậy mà chỉ trong vòng 1 tuần triển khai chúng tôi đã lo liệu, chuẩn bị đầy đủ mọi thứ.
Đêm trước ngày ký hiệp định Paris, Trung đoàn 1 từ chiến khu theo dẫn đường của chúng tôi đã chiếm lĩnh trận địa. Đúng 23 giờ đêm 26/1/1973 quân ta tổ chức đánh chiếm Phân Chi khu quân sự xã Phong An (đóng ở trụ sở UBND xã Phong An hiện nay) và tiếp đó đánh chiếm mục tiêu bắc cầu An Lỗ, đẩy lực lượng cảnh sát dã chiến, lực lượng địa phương quân tháo chạy qua vùng chùa Long Quang thuộc địa phận của thị xã Hương Trà bây giờ.
6 giờ ngày 27/1/1973. Sau khi Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng đồng loạt phát thông báo Hiệp định Paris bắt đầu có hiệu lực thì cả một miền dọc sông Bồ từ Hiền Sỹ đến An Lổ rợp cờ Mặt trận dân tộc giải phóng.
Bộ đội và nhân dân vô cùng phấn khởi vì nghĩ rằng sau nhiều năm chìm trong máu lửa của chiến tranh, quê hương đã có hòa bình, dù chưa trọn vẹn!
Trong những ngày ngắn ngủi đó, theo chỉ đạo của trên, chúng tôi đã gấp rút tổ chức bộ máy quân quản để lãnh đạo và chỉ đạo nhân dân đấu tranh buộc địch thi hành hiệp định Paris. Và sự ngây thơ đó đã bị trả giá!
Một tuần sau, địch tung đại đội Biệt động quân đánh thăm dò, thấy ta phản ứng yếu ớt nên 2 ngày sau chúng đã quyết định tung Tiểu đoàn Biệt động quân và Đại đội Cảnh sát dã chiến có xe tăng yểm trợ tiến hành phản kích và đã đẩy toàn bộ lực lượng của ta ra khỏi địa bàn Phong An!
Chưa dừng lại, chúng tiếp tục truy kích. Chiến sự nổ ra ở khu vực khe nước nóng Thanh Tân. Thấy Trung đoàn 1 thương vong nhiều, Quân khu Trị Thiên - Huế điều Trung đoàn 3 (do anh Võ Chót làm Trung đoàn trưởng, sau này là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh QK4) về thay thế và tạo nên phòng tuyến Phong Sơn (cuối năm 1973, Trung đoàn 4 do anh Nguyễn Quốc Khánh làm Trung đoàn trưởng được Quân khu Trị Thiên - Huế cử về thay thế Trung đoàn 3).
Sau khi tái chiếm Phong An, địch tiến hành bình định, thanh lọc và với sự chỉ điểm của bọn gián điệp, đội ngũ cơ sở hợp pháp của ta bị lộ nên chúng đàn áp rất khốc liệt.
Đến mãi bây giờ tôi vẫn không thể nào quên tấm gương kiên trung của các chị Hoàng Thị Quả (Bí thư chi bộ hoạt động hợp pháp), chị Nguyễn Thị Bê (du kích mật) và chị Giãnh (du kích mật). Cả 3 chị đều ở độ tuổi thanh xuân đã bị chúng bắt, hãm hiếp, đánh đập hành hạ rất dã man nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, không hé một lời.
Bất lực, bọn chúng quyết định thủ tiêu bằng cách trói cả 3 chị thành một chùm rồi ném xuống cầu An Lổ. Hai chị Hoàng Thị Quả, Nguyễn Thị Bê hy sinh, còn chị Giãnh may mắn thoát chết nhờ dây trói bị đứt, sông Bồ lại vào mùa kiệt nên khi tỉnh dậy chị Giãnh đã bò được vào bờ (hiện chị còn sống ở thôn Phò Ninh, xã Phong An).
Trước tình hình như thế, thực hiện chủ trương của Huyện ủy Phong Điền, một mặt chúng tôi tìm đường giúp Trung đoàn 1 rút quân (khổ nhất là chuyển đại đội cối 120 ly) và mặt khác lực lượng của 2 xã Phong An, Phong Sơn phải tìm mọi cách đưa số cơ sở, nhất là đảng viên, cốt cán bị lộ ra vùng giải phóng và gần 20 gia đình cơ sở cách mạng đã kịp thoát vòng vây giặc, lập nên làng giải phóng tại Tam Dần.
Sau khi Trung đoàn 1 rút lui, số anh em du kích, an ninh ở Phong An còn lại rất ít. Thôn Phò Ninh thời điểm có tôi, anh Đợi, anh Minh, anh Kiếm; ở thôn Vĩnh Hương có các anh: Quyền, Cầu, Rạm, Hùng. Chúng tôi đào hầm ở các rú để bám dân, bám địa bàn, còn địch thì cho xe cày ủi vùng giáp ranh và tiến hành bình định các thôn. Để thể hiện quyền kiểm soát chúng buộc các nhà phải sơn, kẻ lên tường hoặc mái lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Bị địch khủng bố, ngoài số bị bắt, số cơ sở còn lại phải chạy trốn khắp nơi, đặc biệt có chị Châu Thị Thỏn, Bí thư chi bộ xã Phong Sơn (cơ sở nuôi dưỡng nhà văn Nguyễn Quang Hà, nguyên TBT Tạp chí Sông Hương) và mẹ Trần Thị Con, Chi ủy viên Chi bộ Phong Sơn (mẹ vợ của Bác sĩ Dương Quát nay nghỉ hưu ở Đông Hà - QuảngTrị).
Sau hơn nửa tháng kiếm tìm, cuối cùng chúng tôi được chị Nuôi, một đảng viên hợp pháp ở xóm Bồ báo cho biết đã liên lạc được với chị Châu Thị Thỏn, mẹ Trần Thị Con và cả nhà họ hiện đang trú trong nhà của chị.
Xóm Bồ là vùng lõm của thôn Bồ Điền xã Phong An, nằm phía dưới QL1 và tiếp giáp với xã Phong Hiền nên địch ít chú ý. Thế là trong đêm, từ Phò Ninh tôi và anh Kiếm cắt đường tìm về xóm Bồ để đưa cả hai gia đình ra vùng giải phóng. Thấy nhà chị Nuôi đỏ đèn - tín hiệu an toàn, chúng tôi xâm nhập và tổ chức đưa họ đi. Cuộc giải cứu 2 gia đình diễn ra trong lặng lẽ.
Vì không có giao liên dẫn đường nên tôi và anh Kiếm không biết điểm nào có địch phục kích để mà tránh, trong khi đó trên tuyến QL1, quãng từ An Lỗ ra KM 23 địch bố trí nhiều điểm chốt chặn.
Nhờ thông thuộc địa hình, thay bằng trở lại con đường đã đi, 2 chúng tôi quyết định từ xóm Bồ ngược ra phía bắc vượt qua trảng cát Phong Hiền rồi men theo tuyến giao liên của Quảng Điền để đưa họ lên Vĩnh Hương.
Đó là đêm trăng rất sáng. Mọi vật rõ mồn một, nhất là khi qua trảng cát mà rú đã bị cày nát ở Phong Hiền. Nếu địch phát hiện, chắc chắn chết nhiều hơn sống. Dù có hy sinh cũng phải qua, nếu chần chừ không đưa gia đình chị Thỏn và mẹ Con trốn thoát thì chắc chắn họ sẽ bị địch thủ tiêu như chị Quả, Chị Bê. Chị Châu Thị Thỏn là vợ liệt sĩ có 2 con đứa con trai chưa đầy 10 tuổi. Còn mẹ Trần Thị Con, chỉ có mình Hiền là con gái, lúc đó chừng 15 tuổi.
Để vượt qua trảng cát, tôi đi trước và cõng cháu Đức, anh Kiếm đi sau cùng, cõng cháu Thế. Số còn lại đi giữa, phòng thất lạc.
Cả đoàn lặng lẽ đi trong đêm, đến gần nửa đêm về sáng thì đến QL1, đoạn KM23. Dừng lại, tôi băng qua đường quan sát. Thấy không có động tĩnh gì mới quay lại cõng cháu Đức và dẫn đoàn cùng đi. Mãi đến 5 giờ sáng, sau khi băng qua rất nhiều đồi, đoàn chúng tôi mới tới được rú Vụng Côm. Đây là nơi anh em du kích Vĩnh Hương hay ở, vì sợ bị vấp phải mìn nên không dám vào. Ngồi đợi một lúc mới thấy anh Cầu ra ngụy trang đường vào căn cứ nên tôi gọi. Anh Cầu mừng quá, hỏi ngay: ai đi sau mà đông rứa, lại còn có cả con nít?
Suốt một ngày ở lại đây, đến tối, tôi bắt được liên lạc và đưa 5 người về vùng giải phóng Phong Sơn. Sau khi bàn giao họ cho anh Tuy giao liên, tôi quay trở lại Phong An tiếp tục bám trụ cho đến ngày quê hương giải phóng.
Mới đó mà đã gần 40 năm...
Cháu Đức đêm nào tôi còn cõng trên lưng nay đã là Thượng tá, Thị đội trưởng Hương Trà. Em Hiền đã trở thành bác sĩ và có cháu nội, cháu ngoại...
Chuyện đã lâu nhưng với tôi kỷ niệm của tình quân dân ấy vẫn đong đầy, vì ngoài trách nhiệm nó còn thể hiện tình yêu thương với đồng chí, đồng đội, nhất là lúc khốn khó.
H.X.M
Sau khi Trung đoàn 1 rút lui, số anh em du kích, an ninh ở Phong An còn lại rất ít. Thôn Phò Ninh thời điểm có tôi, anh Đợi, anh Minh, anh Kiếm; ở thôn Vĩnh Hương có các anh: Quyền, Cầu, Rạm, Hùng. Chúng tôi đào hầm ở các rú để bám dân, bám địa bàn, còn địch thì cho xe cày ủi vùng giáp ranh và tiến hành bình định các thôn. Để thể hiện quyền kiểm soát chúng buộc các nhà phải sơn, kẻ lên tường hoặc mái lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Trả lờiXóaTrong mỗi bước ngoặc của mình, hẳn Mãn không quên vì cha mình ông Hồ Bàng làm toán trưởng NDTV, phụ trách Bình định nông thôn xã Phong An, đã được Tổng thống VNCH tặng cho một chiếc máy cày và em của mình là Hồ Xuân Phán là đoàn viên NDTV đã từng cầm súng chống lại cách mạng, nên dù có đi học an ninh, về lại xã Phong An, Mãn rất muốn nhưng không thể được là một chiến sĩ an ninh.
Trả lờiXóaAnh Đợi, Anh Minh trong bài viết này nguyên là bí thư của Xã Phong An, cả hai anh này không biết Hồ Xuân Mãn vô đảng khi nào, sinh hoạt ở đâu...cuối năm 1973 và cả năm 1974 ông Lê Văn Uyên, Trưởng ban Tổ Chức huyện ủy không thấy có hồ sơ kết nạp Đảng của Hồ Xuân Mãn...
Trả lờiXóaBạn bè quốc tế
Trả lờiXóaBây giờ tôi ngồi nhở lại vẫn còn rõ như in những ngày đó. Khi chúng ta vừa giải phóng Quảng Trị 1974, đồng chí Phi đen Castro đến thăm vùng giải phóng. Đồng chí Lê Khả Phiêu lúc đó đang ở quân khu Trị Thiên và đ/c Vũ Thắng lo lắm, bèn gọi tôi lên. Đồng chí nói bảo vệ anh Đen thì đã có bộ chính trị, an ninh trung ương. Nhưng ngại nhất là vùng giáp ranh bọn thám báo vẫn hoạt động mạnh lắm, khu ủy yêu cầu đồng chí lập một đội du kích để bảo vệ anh Đen. Thời gian quá gấp tôi đã cùng anh em tập hợp được 10 du kích thiện chiến vượt sông Ô Lâu thì gặp khoảng 25 tên thám báo. Mối người nổ một phát súng chết một tên, riêng tôi bắn 5 phát giết 10 tên (xuyên táo). 10 tên còn lại đầu hàng, run lập bập, tôi bảo xếp hàng ngang và vung chân đạp một phát cả bon lăn xuống sông chết trong hoảng sợ.
Đận ấy gặp anh Đen, anh nói tiếng Việt là Mãn là anh hùng của tộc (vì ngại nói anh hùng Dân tộc thì bằng Bác giáp à).
Sau năm 2005 tôi gặp anh Đen ở Cu Ba anh hỏi đã phong được anh hùng chưa. Lòng tôi rạo rực, tình cảm dâng trào, một người bạn quốc tế ở nửa vòng trái đất còn nhớ đến tôi. Và 5 năm sau tôi mới trở thành anh hùng, câu chuyện quốc tế này tôi còn chưa kể với Hữu Thu - Mậu Chi.
Rất hay, anh Mãn đọc được đoạn văn này thì khoái lắm đây...
Trả lờiXóaMậu Hân chứ không phải Mậu Chi
Trả lờiXóaTôi muốn viết là Mậu Chi, còn Bảo hân là thằng bồi bút đứng tên cùng Hữu Thu.
XóaHữu Thu - Mậu Chi là 2 tên thân cận ...
Anh Mãn giỏ thật , bắn 5 phát mà diệt được 10 tên thám báo.
Trả lờiXóaAnh Mãn giỏ thật , bắn 5 phát mà diệt được 10 tên thám báo.
Trả lờiXóaTÔI MỚI BIẾT SỐ MỚI CỦA MÃN: 0935223599. THỬ ĐIỆN SẼ BIẾT,
Trả lờiXóavì chúng xếp hàng một
Trả lờiXóaanh mãn sử dụng súng trung liên RPK của Nga.
Trả lờiXóaRPD
Trả lờiXóa