Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

Ông Hồ Xuân Mãn có cướp công?

Kính gửi anh Hữu Thu

[Sau khi bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Hà có tựa đề “Về lại Phong Điền” đã được photo phát tán nhiều nơi làm dấy lên sự hoài nghi, lo lắng về nhân phẩm, đạo đức và thậm chí bôi nhọ thanh danh của một con người từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế 2 nhiệm kỳ. Vì thế, chúng tôi đã vào cuộc tìm hiểu sự thật.]
Rất đồng tình với Hữu Thu, Anh Mãn là bí thư của tỉnh đảng bộ, bí thư của chúng ta, thanh danh của anh Mãn là thanh danh của tỉnh đảng bộ, của tất cả đảng viên thuộc tỉnh đã bằng hình thức gián tiếp hoặc trực tiếp bầu lên anh Mãn, Con người anh Mãn không chỉ là của anh Mãn, gia đình anh Mãn, anh Mãn đã là người của Đảng, Đảng là anh Mãn.
Tất nhiên, trước hết anh Mãn phải tự giữ mình, không nên có những việc làm, lời nói làm cho quần chúng mất niềm tin vào anh Mãn vì điều ấy đồng nghĩa với việc mất niềm tin vào Đảng.
Không chỉ có anh, chúng tôi những đảng viên cũng muốn biết sự thật về phẩm chất, đạo đức của bí thư tỉnh ủy...bí thư của chúng ta tốt tại sao chúng ta không bảo vệ? bí thư chúng ta không tốt cậy chức, cậy quyền để làm bậy chúng ta không ngại va chạm, né tránh mà phải phê phán để phòng ngừa để các quan của chúng ta luôn tự soi mình mà học tập và làm theo Bác...cán bộ đảng viên xem đây là một bài học đau đớn để tu dưỡng rèn luyện, như vậy Đảng mới có cán bộ có bản lĩnh chính trị, có tư cách đạo đức, vì nước vì dân...
Bài viết này của anh như một bản thành tích của anh Mãn để được công nhận danh hiệu AHLLVTND, như một cách giải trình cho anh Mãn...đây không chỉ là trách nhiệm của riêng anh, mà là trách nhiệm của đảng viên, của tỉnh ủy, trước hết là thường vụ tỉnh ủy.
Không giải trình, không làm rõ anh Mãn có xứng đáng AHLLVTND, không chỉ để ô danh anh Mãn mà còn tổn hại đến niềm tin của nhân dân vào tỉnh ủy, Ban thường vụ tỉnh ủy, của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế.


Bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Hà có giá trị như các bài viết của nhà báo Hữu Thu - Bảo Hân. Nhà báo, nhà văn phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhân vật trong tác phẩm mới là hiện thực, con người thực. 
Nếu Mãn xứng đáng là anh hùng thì các nhân vật trong tác phẩm một thời làm Việt Cộng nói sai, vu khống là phạm vào 19 điều cấm đảng viên không được làm, dám bôi bác, làm ô danh người anh hùng LLVTND Hồ Xuân Mãn, Ủy viên TƯ Đảng, Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Chờ xem...
Cũng là nghề viết lách nhưng đứa ăn không hết, kẻ mần không ra rồi...chánh bút, bồi bút hồi sau sẽ rõ. Chánh bút, bồi bút đều đi vào lịch sử, chỉ khác nhau ở chổ được tôn trọng hay  bị khinh bỉ mà thôi...


Bài 1: Nhân chứng một thời (08/01/2013)

"Em đi đâu cũng nghe người ta bàn chuyện báo chí viết về anh Hồ Xuân Mãn. Theo em, với kinh nghiệm của mình anh nên tìm hiểu sự việc thế nào. Có phải anh Hồ Xuân Mãn là "người cướp công của đồng đội?”. Đó là E-mail của đồng nghiệp gửi cho tôi sau khi bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Hà có tựa đề "Về lại Phong Điền” đã được photo phát tán nhiều nơi làm dấy lên sự hoài nghi, lo lắng về nhân phẩm, đạo đức và thậm chí bôi nhọ thanh danh của một con người từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế 2 nhiệm kỳ. Vì thế, chúng tôi đã vào cuộc tìm hiểu sự thật.


Giấy chứng nhận Dũng sĩ, Chiến sĩ thi đua
trong những năm chiến tranh mà ông Hồ Xuân Mãn còn lưu

Ông Hồ Xuân Mãn, sinh năm 1949, quê ở thôn Phò Ninh, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế; tham gia cách mạng khi 14 tuổi, đến năm 1967 thì thoát ly gia đình, trực tiếp cầm súng đánh giặc. Trong những năm chiến tranh, từ một chiến sĩ an ninh vũ trang tỉnh Thừa Thiên, ông làm Đội trưởng Trinh sát an ninh vũ trang Ban An ninh huyện Phong Điền. Từ năm 1973 cho đến ngày quê hương Thừa Thiên - Huế giải phóng (26-3-1975), ông Hồ Xuân Mãn là Trưởng ban An ninh kiêm Xã đội trưởng xã Phong An, huyện Phong Điền. Suốt thời gian 5 năm (1970 -1975) bám dân, bám đất và kề vai sát cánh cùng đồng chí, đồng đội, ông Hồ Xuân Mãn đã lập nhiều chiến công xuất sắc và góp phần tạo nên vành đai Sơn - An - Nguyên diệt Mỹ nổi tiếng.

Năm 1994, tại khách sạn Hương Giang (Huế), thấy ông Lê Việt Hà (Trưởng Công an TP. Huế) gọi, xưng hô rất thân mật với ông Hồ Xuân Mãn (Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy), tôi hỏi: "Hai anh đã thân nhau à?”. Ông Lê Việt Hà cho biết: "Từ giữa năm 1968, ở vùng thượng nguồn sông Bồ, trên đường đi công tác, bọn mình gặp biệt kích Mỹ”. Rồi chỉ vào ông Hồ Xuân Mãn đang ngồi đối diện, ông Hà khẳng định: "Chính anh Mãn đã cõng và cứu mình thoát chết. Nghĩa tình sâu đậm lắm, không ở trong cuộc không biết mô!”.

Đại tá Nguyễn Việt Hùng - nguyên Giám thị Trại giam Bình Điền, quê ở xã Thủy Vân, thị xã Hương Thủy nhớ lại: "Toán chúng tôi có 3 người. Anh Lê Việt Hà đi đầu, kế đến là tôi và anh Hồ Xuân Mãn. Trong khi chúng tôi đang leo dốc thì địch bất ngờ nổ súng. Anh Hà kêu thất thanh: -Hùng ơi, mình bị thương rồi! Tôi hỏi anh Mãn: Anh Hà bị thương thì mần răng?Anh Mãn nói: -Phải đưa lui và cấp cứu ngay! Trong khi chúng tôi thay nhau cõng  tìm nơi để vừa tránh địch vừa tiến hành băng bó vết thương thì anh Lê Việt Hà trăng trối: "Đ/c Lớn đang nợ tôi mấy chục triệu” (tiền của chế độ cũ, anh Hà ứng để về đồng bằng mua gạo cho đơn vị) và hô khẩu hiệu: Đảng Lao động muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Hô đến lần thứ 3 thì anh Hà ngất lịm. Chúng tôi tưởng anh Lê Việt Hà đã hy sinh nên đem giấu vào một bụi rậm rồi tìm đường trở lại đơn vị, bởi lúc này địch đã gọi máy bay đến oanh kích rất dữ dội. Sáng hôm sau chúng tôi được đơn vị phân công quay trở lại tìm kiếm anh Lê Việt Hà. Ngoài 2 chúng tôi còn có thêm anh Hồ Văn Ninh, sau này là Phó Viện trưởng Viện KSND tỉnh Thừa Thiên - Huế (vừa nghỉ hưu). Tìm mãi không thấy, anh Mãn ngại rằng, không lẽ ngửi được mùi máu, cọp đã tha xác anh Hà? Dù vậy, cả mấy anh em chúng tôi phân nhau tìm kiếm, nếu hy sinh thì phải tìm cho được thi thể của anh Lê Việt Hà để mai táng và báo cáo cho đơn vị. Hóa ra nửa đêm tỉnh lại, anh Lê Việt Hà đã bò đi tìm nước uống và bị ngất xỉu nên nằm lại bên bụi lá nón, gần bờ khe. Anh Lê Việt Hà thoát chết trong hoàn cảnh ấy”.

Trong hồi ký của mình, ông Lê Sáu, quê ở huyện Phú Lộc, nguyên Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên, nguyên Bí thư Huyện ủy Phong Điền thuật lại: "Ngày 6-9-1969, tôi được Thường vụ Khu ủy Trị Thiên - Huế điều động trở lại Phong - Quảng Điền thay đồng chí Vũ Thắng (sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế) làm Bí thư Huyện ủy Phong Điền phụ trách Quảng Điền. Đầu năm 1970, sau khi đồng chí Hồ Xuân Mãn dự học lớp nghiệp vụ An ninh ở Quảng Bình vào, theo đề nghị của tôi, đồng chí Tư Minh - Phó Bí thư Khu ủy, Trưởng ban An ninh Khu đồng ý không để đồng chí Hồ Xuân Mãn về lại đơn vị cũ mà chuyển về công tác tại Ban An ninh huyện Phong Điền do tôi làm Trưởng ban. Mãi đến khi đồng chí Ngô Văn Viện (cần vụ) bị thương mới chọn đồng chí Hồ Xuân Mãn làm thư ký và bảo vệ cho tôi. Lớp học nghiệp vụ An ninh 3 tháng được tổ chức tại xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình do ông Hồng Lam, cán bộ An ninh Khu ủy Trị Thiên - Huế phụ trách. Đồng chí Nguyễn Đình Bảy - Phó Ban An ninh Khu ủy Trị Thiên - Huế; Vĩnh Thành - Trưởng Ty Công an Đặc khu Vĩnh Linh cùng nhiều cán bộ của C500 được Bộ Công An cử vào tham gia giảng dạy. Lớp học chỉ có 2 trung đội. Một do ông Ngọc Anh (quê Hương Trà, chồng của chị Lành, nguyên Phó Chủ tịch UBMTTQ Huế) làm Trung đội trưởng. Trung đội còn lại do ông Hồ Xuân Mãn làm Trung đội trưởng. Số học viên nay chỉ còn vài người như: ông Nguyện (nguyên Phó Phòng Tổ chức Công an Thừa Thiên - Huế), ông Cưụ (Công an Phong Điền), bà Điền, bà Hợi (Công an Hương Điền cũ), ông Cống (Công an Quảng Điền), ông Kiên (Công an Phú Lộc), ông Nguyễn Việt Hùng (nguyên Giám thị Trại giam Bình Điền), chị Lê Thị Thu (nguyên Phó Chánh Văn phòng UBMTTQ tỉnh Thừa Thiên - Huế)... Cuối  năm 1970, Thường vụ Huyện ủy Phong Điều quyết định cử đồng chí Hồ Xuân Mãn làm Đội trưởng Trinh sát An ninh ở Phong An - Phong Sơn”.

Ông Ngô Kha, quê ở Quảng Trị, sau khi tốt nghiệp Đại học, năm 1964 đã vào chiến trường Thừa Thiên - Huế công tác. Trong những năm chiến tranh, ông Phụ trách Báo Cờ giải phóng, Bí thư Đảng ủy Ban Tuyên huấn Thừa Thiên. Ông Ngô Kha cho biết: "Hễ lần nào tỉnh mở Đại hội chiến sĩ thi đua thì lần đó đều có anh Hồ Xuân Mãn tham dự. Tôi biết rõ điều này vì  tôi được phân công viết giúp bản báo cáo thành tích cho anh Mãn và nhiều người khác. Năm 1973, sau Đại hội thi đua của tỉnh Thừa Thiên, một số cán bộ tiêu biểu được chọn đi dự Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua tổng kết 18 năm chống Mỹ của Quân khu Trị Thiên - Huế tổ chức ở Cồn Tiên - Quảng Trị. Ông Ngô Kha là đại biểu chính thức. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tham dự Đại hội với tư cách là phóng viên Tạp chí Văn nghệ Trị Thiên - Huế vừa mới thành lập”.

Ông Hồ Viết Lễ - nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Thương mại Thừa Thiên - Huế, một trong những Chiến sĩ thi đua tham dự Đại hội ở Cồn Tiên  nhớ lại: "Theo kế hoạch, tôi được phân công báo cáo điển hình xã T.(tức Phú Thạnh - Phú Đa ngày nay), anh Nguyễn Văn Thạnh báo cáo điển hình xã M. (tức Mỹ Thủy - Thủy Phương), anh Hồ Xuân Mãn báo cáo điển hình xã A. (tức xã Phong An).”

Ngoài 3 lần tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua, ông Hồ Xuân Mãn từng đã có 33 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ, 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Huân chương Giải phóng các hạng và 1 Huân chương Quyết thắng, 3 huy hiệu Chiến sĩ thi đua, nhiều bằng khen và cả giấy chứng nhận danh hiệu "Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”.

Trong những chiến công xuất sắc của ông Hồ Xuân Mãn, theo ông Lê Sáu thì việc ông Hồ Xuân Mãn phối hợp với lực lượng của 2 xã Phong An -Phong Sơn vào đầu tháng 10-1972 diệt được tên ác ôn khét tiếng (xin không nêu tên) là vang dội nhất, vì tên này có đặc điểm là sau khi sát hại cán bộ, du kích của ta, hắn tự xẻo tai rồi đeo lên cổ. Hắn khoe đã giết được 82 cán bộ, du kích Phong - Quảng nằm vùng. Trong hồi ký của mình, ông Lê Sáu còn dẫn nhiều trường hợp anh Hồ Xuân Mãn đã cùng đồng đội tham gia diệt ác trừ gian và tổ chức đánh địch rất cụ thể, nhưng vì đó là chiến tranh và phần lớn vợ con họ hiện đang còn sống, có những người cùng quê; hơn nữa Đảng ta chủ trương khép lại quá khứ nên ông Lê Sáu không đồng ý nêu cụ thể.
Hữu Thu-Bảo Hân


Bài 2: Những chiến công thầm lặng (09/01/2013)

Sau Hiệp định Paris 1973, địch dùng 1 tiểu đoàn biệt động quân và 1 đại đội cảnh sát dã chiến có xe tăng yểm trợ để tái chiếm xã Phong An. Sau khi tái chiếm, chúng tiến hành bình định, thanh lọc. Nhiều đảng viên, an ninh, du kích của  ta bị bắt, tra tấn tù đày, thậm chí còn bị thủ tiêu.


Để bảo toàn lực lượng, Huyện ủy Phong Điền chủ trương gấp rút đưa những cơ sở còn lại ra vùng giải phóng. Nhận nhiệm vụ của cấp trên giao, ông Hồ Xuân Mãn đã cùng với lực lượng 2 xã Phong An và Phong Sơn bí mật tổ chức đưa hơn 20 gia đình cơ sở cách mạng lên chiến khu. 

 Sau gần 1 tháng rời địa bàn đi dự Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua ở Cồn Tiên, ông Hồ Xuân Mãn quay trở lại A Lưới và biết ở quê mình chị Hạnh - Huyện ủy viên, Bí thư xã Phong An; anh Đời - Bí thư xã Phong Sơn; anh Thuận - Xã đội trưởng Phong An; anh Đàm, anh Anh - du kích và nhiều đồng chí khác đã lần lượt hy sinh. Trước tình hình đó, ông báo cáo với ông Vũ Thắng - Bí thư Tỉnh ủy và ông Nguyễn Đình Bảy - Phó Ban An ninh Khu ủy xin trở lại Phong Điền. Về đến nơi, ông Lê Tư Sơn - Bí thư Huyện  ủy, ông Phạm Văn Danh - Trưởng Ban An ninh huyện cho ông Hồ Xuân Mãn biết: "Tình hình Phong An bây giờ gay go lắm. Thường vụ tin đồng chí và giao đồng chí tìm mọi cách trở lại chỉ đạo phong trào.” 

Liên quan đến nội dung bài viết "Về lại Phong Điền” của nhà văn Nguyễn Quang Hà, ngày 5-12-2012, ông Đồng Hữu Vinh - Trung tá, Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm Chính trị Ban CHQS huyện Phong Điền và ông Nguyễn Văn Lương - Thượng tá, nguyên Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Phong Điền đã có văn bản phản hồi. Ông Đồng Hữu Vinh cho biết: "Tôi thấy rằng: một số nội dung và ngôn từ của bài báo phản ánh không đúng sự thật và bị cường điệu hóa làm cho người đọc hiểu sai vấn đề.”...Có đoạn thoại (trích đăng trong bài báo), theo khẳng định của ông Đồng Hữu Vinh "là hoàn toàn sai sự thật”.
Để tránh địch phát hiện, ông Hồ Xuân Mãn và ông Hùng (du kích) lội xuống bàu (ruộng sâu) dùng cỏ để ngụy trang. Trong cuộc đời tham gia hoạt động cách mạng của ông Hồ Xuân Mãn, theo ông đây là thời điểm gian khổ nhất, vì ban đêm thì lạnh, muỗi bu kín đầu còn ban ngày nắng như đổ lửa, nước lại nóng, bụng đói lại bị đỉa hành. Đêm xuống, cởi hết áo quần, toàn thân đầm đìa máu và đỉa. Hai ngày sau, họ mới tiếp cận được ấp Phò Ninh và gặp được chị Nguyệt - cơ sở của ta. Chị Nguyệt khuyên họ: "Đi đi, ở đây là chết vì địch đóng ở khắp nơi”. Thông qua chị Nguyệt, cuối cùng ông Hồ Xuân Mãn đã gặp được chị Hoa - cơ sở mật của an ninh. Gặp lại cán bộ cách mạng, chị Hoa òa khóc: "Chết hết rồi, chú về chi nữa!”

Từ đó, cùng với anh em an ninh, du kích, ông Hồ Xuân Mãn gây dựng lại phong trào. Chi bộ mật, Chi đoàn mật, 5 tổ du kích mật được khôi phục và hoạt động trở lại. Tháng 3-1975, mặc dù không có lực lượng chủ lực hỗ trợ nhưng ông Hồ Xuân Mãn đã cùng lực lượng tại chỗ tổ chức nhân dân 2 xã Phong An - Phong Sơn nổi dậy, phá toang cánh cửa phía Bắc, tạo điều kiện cho Quân đoàn II tiến quân vào giải phóng Huế.

Nếu không được nghe những người trong cuộc kể lại những câu chuyện sau đây thì khó mà hình dung về phẩm chất của một người anh hùng một lòng kiên trung với Đảng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ cán bộ lãnh đạo trong những năm đầy gian khổ và ác liệt của chiến tranh.

Đó là tháng 6-1970, một đoàn cán bộ 5 người, gồm ông Vũ Thắng - Bí thư Đảng ủy Đoàn 6 và 2 cần vụ, ông Lê Sáu - Bí thư Huyện ủy Phong Điền, Thường vụ Đảng ủy Đoàn 6, do ông Hồ Xuân Mãn (lúc đó là  thư ký và bảo vệ cho đồng chí Lê Sáu) dẫn đầu hành quân từ dốc Cao Bồi trên đất Lào để trở về hậu cứ Phong Điền. Do đoàn không có trinh sát, không có giao liên dẫn đường nên tính mạng của 4 con người, trong đó có 2 vị lãnh đạo chủ chốt của Thừa Thiên đều phó thác vào ông Hồ Xuân Mãn. Khi đến đoạn đường gần cao điểm Cóc Bai - ngã 3 Quảng Trị thì diễn ra tình huống: địch vừa phục kích và cắm 3 cái đầu máu đang còn chảy. Trước diễn biến bất ngờ đó, ông Hồ Xuân Mãn đã cùng với ông Viết (bảo vệ của đồng chí Vũ Thắng) tiến hành kiểm tra. Biết địch đã rút, không gài lựu đạn nên cả đoàn tổ chức mai táng. Nhóm 3 người của Đoàn 6 tạm dừng lại chờ dò đường, còn ông Mãn, ông Sáu tiếp tục đi. Gần giữa chiều, linh cảm bất an nên ông Mãn dừng lại nói nhỏ với Thủ trưởng của mình: "Chú đợi cháu ở đây” rồi  tiếp tục trinh sát. Được một quãng, ông Mãn phát hiện giữa đường địch lại cắm 1 cái đầu. Đi tiếp, ông lại phát hiện thêm 1 cái đầu khác. Cả 2 máu còn chảy, chứng tỏ địch vừa phục kích tại đây.


Văn bản của ông Đồng Hữu Vinh và Nguyễn Văn Lương 
có xác nhận của Thượng tá Đặng Trần Sơn 
- Chính trị viên  Ban CHQS huyện Phong Điền

 Kể cho nghe tôi nghe đến đoạn này ông Lê Sáu nói: "Thú thật đến lúc đó mình cảm thấy ớn lạnh. Phải là con người gan lỳ, không biết sợ mới dám liều lĩnh đi một mình như thế. Đó là phẩm chất của một anh hùng!”. 

Về đến căn cứ của xã Phong Thu, ông Hồ Xuân Mãn lại nhận nhiệm vụ đi tìm gạo, muối cứu đói cho bộ phận của ông Phan Bằng - Tỉnh đội trưởng và ông Võ Lạng (sau giải phóng là Chủ tịch UBND huyện Phú Lộc) - Cán bộ tổ chức của Trung đoàn 6 đã đói nhiều ngày đang tìm đến để xin tiếp tế. Đó là một nhiệm vụ rất nguy hiểm. Trong những năm chiến tranh, để bảo vệ số lương thực cất giấu, trước khi chuyển chỗ đóng quân, anh em ta thường gài lựu đạn để phòng địch hoặc thú rừng phá hoại. Anh Hoàng Khuê (Thu) - Bí thư xã Phong Thu đã chết vì mìn do anh em gài lại ở hầm cũ. Trước khi đi, ông Lê Sáu dặn ông Mãn: Phải hết sức cẩn thận "vì đồng chí là người duy nhất gắn liền sinh mạng với tôi và sứ mệnh của Đảng bộ 2 huyện Phong - Quảng”.

Ông  Lê Sáu thuật lại trong hồi ký: "Như một người đi dò mìn, anh Mãn lần từng đoạn, phát hiện vật nổ cả dưới đất lẫn trên cây, vượt qua đoạn này đến đoạn khác. Gần 12 giờ trưa anh Mãn mới tìm ra chỗ giấu gạo, muối và gùi về được 50 lon gạo, 3 lon muối và mang theo 2 quả lựu đạn mà anh em mình đã gài ở miệng hầm. Anh Mãn chia cho anh Phan Hường 18 lon gạo, 1 lon muối, anh Võ Lạng 32 lon gạo, 2 lon muối. Cân lương khô mang từ khu ủy về anh Mãn cũng cho luôn đoàn của anh Võ Lạng.”

Trong hồi ký của mình, ông Lê Sáu còn ghi lại kỷ niệm mà trong gần 10 năm làm Bí thư Huyện ủy Phong Điền, ông không bao giờ quên cái đêm anh Hồ Xuân Mãn tổ chức đưa ông vượt qua căn cứ địch ở Đồng Lâm - Ngành Ngạnh. Ông Sáu cho biết: "Đoạn đường không dài mà ở đó có 36 cụm biệt kích Mỹ chốt giữ. Đêm đó, tôi bị vọt bẻ nên phải lết từng bước một, tránh hết ổ biệt kích này, lết qua ổ biệt kích khác chốt xen kẽ nhau giữa các quả đồi. Chỉ cần một sơ suất nhỏ, địch phát hiện được, chúng tôi chỉ có tử chiến, khó thoát chết.”.

Sự thật về năm tháng chiến đấu can trường của ông Hồ Xuân Mãn có thể viết thành một cuốn truyện ký. Tuy nhiên, chỉ riêng một số thông tin vừa nêu cũng đã đủ hình dung về phẩm chất của một cán bộ nằm vùng. Điều cần nói thêm là kể từ khi đất nước đổi mới, từ một Bí thư Huyện ủy, ông Hồ Xuân Mãn phấn đấu và trở thành Bí thư Tỉnh ủy 2 nhiệm kỳ, được tặng thêm 8 Huân chương, trong đó có 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì, 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì và 1 Huân chương chuyên án an ninh tôn giáo, 1 Huân chương Đại Đoàn Kết dân tộc, 1 Huân chương Lao động hạng Nhì, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 1 Huân chương Hữu nghị, 1 Huân chương Itxala. 

Năm 2010, xét thành tích cả thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, ông Hồ Xuân Mãn được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.
Hữu Thu - Bảo Hân
Bài 3
Anh hùng LLVTND Hồ Xuân Mãn: Người con ưu tú của đất Phò Ninh
9:55, 31/01/2013


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Xuân Mãn.

Đêm 9/9/1966, có một chàng trai chưa tròn 16 tuổi, từ biệt cha mẹ, ông nội  và làng Phò Ninh, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên để cùng những người bạn đồng liêu là các anh Hoàng Xê, Hồ A… tìm đường lên chiến khu tham gia kháng chiến, gia nhập vào Đại đội An ninh vũ trang đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên. Trong những năm tháng chiến tranh tàn khốc trên mặt trận Thừa Thiên, anh đã cùng với những đồng đội của mình tổ chức nhiều trận đánh "xuất quỷ nhập thần" làm cho quân lực Hoa Kỳ và binh sĩ quân đội Sài Gòn nhiều phen kinh hồn, bạt vía…
Kẻ thù từng xem anh là "tên an ninh Việt Cộng đặc biệt nguy hiểm" và đã nhiều lần đưa ảnh chân dung của anh lên mục cáo thị để treo giá trọng thưởng bằng tiền cho bất cứ ai bắt sống hoặc tiêu diệt được anh (Theo hồ sơ của Cảnh sát đặc biệt chế độ Sài Gòn để lại - NV). Chàng trai lớn lên từ đất làng Phò Ninh ấy tên là Hồ Xuân Mãn - một người đã đi qua chiến tranh với 33 lần được phong dũng sĩ, 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Huân chương Giải phóng các hạng và 1 Huân chương Quyết thắng, 3 huy hiệu Chiến sĩ thi đua, nhiều bằng khen và cả giấy chứng nhận danh hiệu "Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường".
Sau này, trong công cuộc dựng xây quê hương, đất nước, ông là Ủy viên Trung ương Đảng, 2 nhiệm kỳ liên tiếp giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên Huế và vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Một ngày cuối năm se lạnh ở làng Phò Ninh, trên bậc thềm của ngôi nhà hương hỏa của gia đình, tôi có dịp ngồi đối diện cùng ông để được nghe ông kể thật nhiều những câu chuyện của tuổi thơ nghèo khó, những năm tháng tham gia kháng chiến vào sinh ra tử rồi thời kỳ hậu chiến vất vả, kiến thiết xây dựng quê hương và cả những được mất, buồn vui của một đời người…
Ông kể rằng, khi mình lớn lên, biết suy nghĩ mới thấy những người thân của mình, bà con làng xóm của mình đã bao năm phải chịu đựng dưới nhiều tầng áp bức của chế độ đương thời. Được giác ngộ bởi chính những người thân trong gia đình đã tham gia cách mạng trước đó, cùng với bầu máu nóng của lớp người trẻ tuổi, vậy là ông cùng với những người bạn đồng liêu trong làng quyết định ra đi. Ông kể, ngày đó quyết tâm lên rừng theo cách mạng nhưng chưa thấu tỏ cách mạng là gì hết.
Đêm hôm ấy ra đi cùng với Hoàng Xê, Hồ A và một người bạn nữa tên là Hoàng Nãi, nhà ở cạnh nhà ông. Nhưng khi đến giờ hẹn để lên đường thì anh Nãi bảo rằng đi bộ đội chủ lực xa nhà quá, thôi thì để anh ở lại đi du kích địa phương, vậy là chỉ còn lại ba anh em lặng lẽ tìm đường đến điểm hẹn có người đưa lên chiến khu trong đêm tối. Hành trang lên hậu cứ cách mạng của Hồ Xuân Mãn ngày ấy chỉ có một chiếc võng, một chiếc dù của ông nội tặng, mẹ ông mua cho đôi dép mới, hai bánh đường đen với hai lon đậu huyết (đậu đỏ - NV) của gia đình trồng được.
Đúng giờ hẹn, giao liên có mặt để đưa ba anh em lên đường. Từ Phong An đi lên hướng xã Phong Sơn, vượt dốc Ba Trục ở chỗ khu du lịch nước khoáng Thanh Tân bây giờ, rồi luồn rừng đi mất một đêm hôm đó với gần một ngày hôm sau mới đến chiến khu. Đến nơi, ba anh em nhìn nhau rơm rớm nước mắt vì trước lúc đi ai cũng nghĩ rằng ở vùng Cách mạng cũng có nhà, có xe, có mọi thứ chứ cả ba người không ai hình dung được cách mạng lúc ấy chỉ là vài cái lán nhỏ bằng tranh tre nứa lá được dựng chênh vênh bên cạnh bờ suối ở trong rừng già, xung quanh chỉ toàn là những thứ âm thanh lạ kỳ của chim kêu, vượn hú…
Chiều hôm ấy, cả ba người được các chú, các bác trong hậu cứ nấu cơm cho ăn, ăn cơm xong thì cả ba người ngồi ôm nhau khóc vì nhớ nhà. Thỉnh thoảng nghe từ phía bờ suối vọng lên tiếng kêu quép… quép… của mấy con ếch ương, hỏi mấy ông cán bộ con gì kêu, mấy ông cán bộ bảo đó là tiếng kêu của cọp. Nghe đến đó là cả ba người hoang mang đến tột độ. Ngày hôm sau, cấp dưỡng nấu cơm nhưng cả ba đều ủ ê nằm khóc, không một ai dậy ăn cơm mà nằm bàn với nhau "thôi thì trốn về quê đi du kích, chứ ở giữa rừng già này thì biết làm sao…".
Bước qua ngày thứ ba ở rừng thì anh Vân (người quê gốc ở Hải Phòng do Bộ tư lệnh Công an vũ trang chi viện vào làm Đại đội trưởng, anh Minh Chính trị viên; anh Lợi người ở huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên là Đại đội phó) gọi ba người dậy để động viên, anh Vân nói: "Nếu mấy chú muốn về thì các anh cho về, nhưng bây giờ không có giao liên nên các chú phải tự đi, cái khó là bây giờ mấy chú đi ra là cọp nó chụp liền, chết mà không toàn thây vì bị cọp ăn thì cũng khổ…". Nghe xong, cả ba nhìn nhau rồi bằng lòng ở lại. Ở hậu cứ được chừng một tuần lễ thì cả ba anh em bắt đầu bị sốt, nằm liệt gần một tháng trời, đứa nào cũng xanh xương, vàng da, trên đầu rụng không còn lấy một sợi tóc.
Ông Mãn nhớ lại, nằm trong lán vật vã phải hơn một tháng sau mới khỏe, khi thấy đã quen với đời sống núi rừng thì các đồng chí lãnh đạo mới cho đi huấn luyện. Lúc đó, mỗi đứa được phát một cây súng K44 (loại súng bỏ từng viên đạn rất to rồi lắc để bắn), ôm cây súng trên tay mà nước mắt chảy dài vì cây súng ấy dựng lên đã cao hơn mình một đoạn. Những ngày ấy ở chiến khu, anh em trẻ như ông chủ yếu là được đơn vị cho đi bảo vệ mục tiêu lúc đó là cơ quan tỉnh ủy, rồi đi tuần xung quanh khu vực đóng quân.
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho ông Hồ Xuân Mãn.

Nhấp một ngụm trà đang tỏa hương ngào ngạt, ông Mãn kể tiếp: Cho đến bây giờ ông vẫn không thể nào quên được cái buổi chiều đầu tiên trong cuộc đời mình nhìn thấy máu chảy. Đó là một buổi chiều đầu năm 1966, sau khi Tiểu đội bảo vệ của ông được giao nhiệm vụ đi bảo vệ Đại hội thi đua của tỉnh trở về, trên đường về thì gặp trời mưa, với lại anh em tranh thủ dọc đường hái măng giang để mang về cải thiện đời sống nên áo quần người nào cũng bẩn. Vừa về đến lán trại của đơn vị, để súng đạn và số măng giang hái được ngổn ngang trên sàn là anh em lao ngay xuống suối tắm.
Tắm xong thì anh Thành quê ở xã Quảng Điền (nay còn sống ở Quảng Điền - NV) lên trước ngồi lau súng, tiếp đó anh em theo lên nhưng còn lại một người là anh Huề quê ở xã Phong Sơn là Tiểu đội trưởng mà không ai hay biết. Vừa ngồi lau súng, anh Thành vừa hỏi "còn đứa nào dưới suối không? Cũng chẳng thấy ai trả lời nên anh Thành thử siết cò thì bỗng dưng súng nổ. Từ dưới suối, anh Huề la toáng lên: "Chết rồi tụi bây ơi…tao gãy chân rồi…".
Hoảng hốt, tất cả anh em đều chạy ào xuống suối và thấy anh Huề đang quằn quại với cái chân đầy máu. Hôm đó, sau khi anh em lo băng bó, chữa thương cho anh Huề xong thì phải lo giải quyết những bức xúc của mấy anh em là người dân tộc thiểu số trong cùng tiểu đội. Cù Mi, Cù Đức và Cù Toản vì quá thương tiểu đội trưởng Huề mà cho rằng anh Thành là người theo địch và vì theo địch nên mới vác súng bắn Tiểu đội trưởng Huề.
Để trả thù cho Tiểu đội trưởng Huề, Cù Mi đã đi tìm anh Thành để trả thù. Đêm đó, mọi người phải đem anh Thành đi giấu ở một nơi bí mật và rạng sáng hôm sau thì đến gõ cửa cơ quan tỉnh ủy để báo cáo sự việc và xin chuyển công tác cho anh Thành về đó làm giao liên.
Suốt cả năm 1966, ông cùng đơn vị hoạt động ở vùng rừng núi ở Khe Trái, phải đến đầu năm 1967 thì mới được cấp trên cho phép về hoạt động ở vùng đồng bằng. Nhiệm vụ lúc ấy của an ninh vũ trang là xuống các xã của huyện Phong Điền, Hương Trà để phối hợp với các lực lượng "diệt ác, phá kìm", mở rộng vùng giải phóng, nới rộng dần phạm vi hoạt động. Cũng năm này, lần đầu tiên mới chính thức đụng độ với lính bộ binh của Mỹ. Ông Mãn kể, hôm ấy trung đội của ông nhận nhiệm vụ chống càn với một đại đội lính biệt kích Mỹ tập kích vào hậu cứ.
Theo phân công, cứ hai đồng chí của ta chịu trách nhiệm tiêu diệt một lính Mỹ, kế hoạch là bí mật phải đợi đến khi mục tiêu cách điểm phục kích 50 mét mới được siết cò súng. Lần đầu tiên đánh Mỹ, không riêng gì ông Mãn mà hầu hết anh em trong trung đội với vũ khí khá lạc hậu chủ yếu là súng bán tự động, súng K50, K43 Tuyn cải tiến từ chiến tranh chống Pháp còn lại, đều thấy hoang mang khi nhìn thấy đại đội lính Mỹ to lớn, kềnh càng súng đạn dàn hàng ngang tiến vào đội hình.
Y lệnh trên, khi thấy mục tiêu đã vào địa điểm cho phép là anh em đồng loạt bóp cò, sau đó rút nhanh để đề phòng phi pháo và bảo toàn lực lượng. Tổng kết trận đó, trung đội ông đã tiêu diệt 14 lính Mỹ. Anh em rất phấn khởi vì tin tưởng một cách chắc chắn rằng là mình đánh được Mỹ (trước thời điểm ông Mãn đánh Mỹ thì ở chiến trường Quảng Nam và các đơn vị du kích cũng như chủ lực của ta ở chiến trường Thừa Thiên cũng đã đánh Mỹ - NV). Từ đó, cứ theo năm tháng đánh địch, Đại đội An ninh vũ trang đa số anh em đều rất có kinh nghiệm và dạn dày trận mạc.
Cuối năm 1967, để chuẩn bị cho chiến dịch Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, đơn vị chỉ để lại một đại đội làm nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu ở hậu cứ, số còn lại được tăng cường để nâng cấp thành Tiểu đoàn Trinh sát vũ trang do ông Hải làm Tiểu đoàn trưởng (tiểu đoàn này sau được phong Anh hùng lực lượng vũ trang, hiện có các ông Lê Việt Hà, Bạch Hiền, Phê "điếc", Điệp "đui", Bạn… hiện đang sống tại Huế). Tiểu đoàn trinh sát này được trang bị hỏa lực rất mạnh (cứ 3 người có một khẩu B40, 2 khẩu AK báng gấp) để đánh luồn sâu vào nội thành và chuẩn bị cho cuộc tiến công.
Lúc bấy giờ, Đại đội An ninh vũ trang được bố trí một trung đội ở lại bảo vệ hậu cứ, một trung đội phối hợp với lực lượng An ninh Hương Trà bảo vệ trại giam, tiếp nhận tù binh và tài liệu, một trung đội phối hợp với các lực lượng chiến đấu vào thành phố Huế. Trung đội này chia thành 2 nhóm, một nhóm đi cùng với bộ đội chủ lực và trinh sát vũ trang để tiếp quản, vận chuyển tài liệu và dẫn giải tù binh, đặc biệt là loại tình báo, gián điệp. (Các đồng chí làm công tác dẫn giải tù binh đa số là anh em người đồng bào dân tộc như: đồng chí Cu Mi, Cu Đích, Cu Pả…).
Nhóm của ông Mãn đi theo Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 do đồng chí Khảm làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Khả Phiêu (sau này là Tổng bí thư BCH Trung ương Đảng) làm Chính ủy. Vừa làm nhiệm vụ chiến đấu, trinh sát, dẫn đường, vận động nhân dân tiếp tế lương thực. Ông Mãn bảo rằng, chiến dịch Mậu Thân năm 1968 với đồng chí Lê Khả Phiêu có thật nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Tỷ dụ như chuyện anh em tìm được đồng chí Quốc Bảo bị thương nặng nằm sót lại ở Cửa Đông Ba (nay anh Bảo còn sống và làm kinh doanh).
Nhớ nhất là chuyện, sau khi cả tổ dẫn  Trung đoàn 9, kể cả thương binh ra vùng giải phóng, vừa đi vừa đánh nhau với Sư đoàn Kị binh Không vận số 1 của địch. Lên đến vùng A Lưới, súng mỗi khẩu chỉ còn một ít đạn, 1 đồng chí lại vác từ 2 đến 3 khẩu (vì còn phải cáng thương binh), bộ đội không đi nổi vì thiếu lương thực, xin đồng bào dân tộc cũng không có nhiều.
Đồng bào và du kích địa phương nói rằng: Bộ đội cần sắn để ăn, mình cần súng để đánh Mỹ, hay là bộ đội đổi cho mình? Lúc bấy giờ, đồng chí Lê Khả Phiêu đồng ý, cứ mỗi khẩu CKC là 3 gùi sắn, nhờ thế bộ đội có cái ăn để hành quân đến vùng giáp với biên giới Việt - Lào. Sau này, mỗi lần gặp lại đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí ấy bảo rằng "vụ lấy súng đổi sắn hồi Mậu Thân suýt nữa thì bị Quân khu kỷ luật, nhưng sau khi nghe mình phân tích có lý, có tình nên Quân khu lại hoan nghênh…". 
(Còn nữa)

  Phan Bùi Bảo Thy

Người con ưu tú của đất Phò Ninh (tiếp theo và hết)
3:10, 02/02/2013

Từ A Lưới, tổ của ông Mãn quay trở lại Hương Trà để cùng với Đại đội An ninh vũ trang đánh địch, mở đường cho Tỉnh ủy chuyển từ Khe Trái, Hương Trà về khu vực Khê Đầy, Hương Thủy để trú ẩn. Thời kỳ này, ở Khe Trái máy bay B52 của địch oanh kích một ngày không biết bao nhiêu lần, đạn từ máy bay rót xuống dày đặc, rừng núi trơ trụi, hố bom chồng lên hố bom. Chỉ có các cơ quan đầu não như Thành ủy, Tỉnh ủy, Ty Công an là di chuyển an toàn, còn lại những đơn vị chưa di chuyển được, nhất là kho tàng thì bị thiệt hại rất nặng nề sau nhiều ngày rải thảm của địch.
>> Anh hùng LLVTND Hồ Xuân Mãn: Người con ưu tú của đất Phò Ninh

Năm 1969, ông Mãn được đơn vị bầu là Chiến sĩ thi đua và giữa năm 1969, được Ban An ninh khu cử đi học lớp nghiệp vụ 3 tháng ở Quảng Bình. Đầu năm 1970, ông Mãn được ông Lê Sáu - Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy - Bí thư Huyện ủy xin về địa bàn Phong Điền làm thư ký và bảo vệ.
Khi trở lại vùng đất Phong Điền - Quảng Điền thì cán bộ cơ sở không còn nhiều nữa vì bị phản kích. Lúc bấy giờ, lãnh đạo quyết định trưng dụng quân của Đại đội 1, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 6 do ông Vũ Thắng (sau này là Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư tỉnh ủy Bình Trị Thiên - NV) làm Chính ủy về tăng cường cho các địa phương để bổ sung vào lực lượng du kích. Có những người đang là đại đội trưởng, đại đội phó một đơn vị chủ lực, tăng cường làm xã đội trưởng. Như trường hợp của đồng chí Tăng Văn Phả, đại đội trưởng được tăng cường làm xã đội trưởng xã Phong Sơn (sau này đồng chí Phả là Bí thư tỉnh ủy Hà Nam - NV) .
Là người dân địa phương, ông Mãn thấy rằng nếu thực hiện chính sách đưa quân chủ lực về tăng cường địa phương sẽ vô cùng nguy hiểm, hơn nữa phương án này anh em sẽ hy sinh nhiều. Thứ nhất vì quân chủ lực về ở địa phương không ai rành đường sá; thứ hai anh em không rành các phương án xây dựng cơ sở bí mật tại địa phương. Vì lẽ đó, ông Mãn đã xin ý kiến lãnh đạo để được chuyển hướng hoạt động, tức là không nằm vùng ở dọc tuyến phía ngoài (đồi rú, bờ ruộng, ao bàu) mà chuyển hẳn vào nằm vùng bí mật trong dân. Tổ chức xây dựng nên một vùng căn cứ lỏm ở ngay trong địa bàn các thôn xóm. Ở đó, ông đã cùng với các đồng chí của mình bám trụ, xây dựng các đơn vị du kích, chi bộ mật. Thời điểm này, cả Phong An, Phong Điền có gần 2 trung đội du kích mật và 3 chi bộ, chi đoàn mật.
Năm 1971, ông đã cùng với lực lượng du kích ở xã Phong An luồn sâu vào vùng địch hậu, tấn công tiêu diệt nhiều lực lượng phòng vệ dân sự của địch. Đưa hơn 40 thanh niên lên hậu cứ bổ sung thêm lực lượng. Có lực lượng trong tay, ông cùng những đồng chí của mình tổ chức những trận đánh nhỏ lẻ để dằn mặt địch, hồi ấy chủ yếu là đánh bằng bom mìn, mục tiêu là bọn nghĩa quân, địa phương quân, dân vệ…
Có lần, ông cùng với hai người đồng chí tên Minh (sau này ông Minh làm Phó giám đốc Sở Nội vụ của tỉnh Thừa Thiên Huế - NV) và Hùng (nay sinh sống ở Vĩnh Hưởng - NV) đánh một trận chí mạng làm lực lượng địch ở địa bàn Phong An hoảng loạn.
Ông nhớ lại, hồi đó, ở vị trí cổng vào làng Phò Ninh quê ông, địch thành lập nên một cái chốt và bố trí ở đó một trung đội để canh chừng. Sau một thời gian điều nghiên quy luật hoạt động của địch, ông quyết định đánh. Hôm ấy là ngày 14 âm lịch nên trăng rất sáng. Tổ công tác của ông bí mật tiếp cận vị trí chiến đấu để đặt 1 quả mìn Claymo nằm chờ.
Khoảng 20 giờ 15 phút, cả trung đội địch bước ra đi tuần tra, ông Mãn lấy chân đá vào chân đồng chí Minh ra lệnh khai hỏa. Quả Claymo trước điểm phục kích địch vang lên một tiếng nổ chát chúa, tiếp đó ông Mãn rút chốt trái lựu đạn ném về phía địch, rồi nhanh chóng rút quân một cách an toàn. Trận đó, toàn trung đội địch có 28 tên thì chỉ còn 1 tên sống sót do lúc anh Minh điểm hỏa tên này đang ghé vào một ngôi nhà bên đường để uống nước.
Ông Hồ Xuân Mãn (người đội mũ thứ hai - từ phải sang) ở chiến khu Khe Trái.

Một lần khác, ông phát hiện thấy một trung đội địa phương quân của địch hàng ngày đóng chốt ở trên Động Hóc gần làng Phò Ninh. Qua theo dõi, ông đã nắm được hành trình tuần tra của chúng, sau mỗi lần đi tuần về thường là chúng bắt gà, bắt vịt của người dân trong làng mang lên Động Hóc để nướng ăn. Hồi đó là tháng 11 nên thời tiết rất lạnh, địch thường tận dụng việc nướng gà, vịt để cùng nhau ngồi sưởi ấm. Vậy là ông cùng với một đồng chí tên Công đi kiếm 1 quả pháo 155 ly, đục phần đầu để cài kíp mìn vào trong đó.
Lợi dụng thời điểm địch đi tuần tra, ông cùng với người đồng chí của mình đột nhập lên Động Hóc, bí mật đào lỗ ngay dưới đống tro mà địch hay đốt lửa để cài quả đạn, rồi ra ngoài trèo lên một ngọn cây để quan sát. Sau khi địch đi tuần tra về, đúng như nhận định của ông, chúng gom củi để đốt lửa sưởi ấm. Khi cả trung đội lính ngụy đang xúm lại bên đống lửa thì một tiếng nổ vang lên, khói và đất đá tung lên mù mịt. Lần ấy, cả trung đội 29 tên cũng chỉ còn 1 tên sống sót vì đang đi lấy củi từ xa.
Ông Mãn kể rằng, thời buổi đó anh em hầu như tuần nào cũng đánh vài trận, tuy rằng chỉ đánh nhỏ lẻ nhưng hiệu quả rất cao. Có những lần ông còn phối hợp cùng xã đội với 3 đồng chí đột nhập ban ngày vào khu tập trung để tiêu diệt những tên ác ôn khét tiếng làm cho bọn chúng hết sức hoang mang, lo sợ. Ngoài chuyện đánh để tiêu diệt sinh lực địch, ông Mãn còn cùng với anh em trong lực lượng của mình tổ chức tháo gỡ các loại mìn do địch gài dày đặc, nhất là loại mìn địch gài bằng điện gọi là mìn Căng - Chùng - Nổ, để phục kích cán bộ của ta vào ấp ban đêm. Hồi ấy, ông gỡ mìn thiện nghệ đến mức anh em trong đơn vị mệnh danh là "ông vua gỡ mìn".
Năm 1973, sau gần một tháng rời địa bàn để ra vùng Cồn Tiên - Quảng Trị dự Đại hội Chiến sĩ thi đua 18 về tổng kết công tác chống Mỹ. Khi trở về đến địa bàn huyện A Lưới, ông nhận được hung tin là hầu hết các cán bộ chủ chốt ở địa bàn đã hy sinh trong những trận phục kích của địch. Trong số đó có chị Hạnh - Huyện ủy viên, Bí thư xã Phong An; anh Đời - Bí thư xã Phong Sơn; anh Thuận - Xã đội trưởng Phong An; anh Đàm, anh Anh - du kích và nhiều đồng chí khác…
Về đến A Lưới hôm trước, thì hôm sau được ông Lê Tư Sơn - Bí thư huyện ủy, ông Luyện - Huyện đội trưởng, ông Phạm Văn Danh - Trưởng Công an huyện gọi ông đến để thông báo tình hình và đề nghị ông tìm mọi cách phải về xã Phong An để kết nối lại liên lạc chứ không thể để trống địa bàn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phong trào. Ông Lê Tư Sơn vỗ vai ông nói: "Tình hình như vậy đó, bây giờ cháu có yêu cầu gì cháu cứ đề xuất từ chuyện con người đến vấn đề vũ khí…".
Sau khi thống nhất kế hoạch, ông xin 5 kg lương khô, 4 hộp đạn AK và chọn đồng chí Hùng vì anh này rất rành đường sá mà lại khá gan dạ. Ông Luyện đưa Trung đội trinh sát của anh Quyết, anh Thiều thuộc Huyện đội bố trí yểm trợ cho ông vượt tuyến. Sau khi vượt tuyến, ông được anh Châu giao liên dẫn đường để trở lại địa bàn. Khi chia tay ở địa bàn thôn Vĩnh Hưởng thì anh Châu không chịu quay về mà cứ nắm tay ông đứng khóc vì biết được rằng khả năng sống sót sau chuyến trở về này của ông là quá đỗi mong manh. Ông an ủi Châu rằng: "Đừng khóc, vì mày cứ khóc thế này tao đi không được, thôi thì Châu về, nếu đêm nào Châu không nghe mìn nổ vậy là tao còn sống…".
Ông Hồ Xuân Mãn tặng học bổng cho học sinh nghèo.

Chia tay với anh Châu, ông cùng đồng chí Hùng lần mò về Phò Ninh và quyết định náu mình dưới một bàu nước rất lớn để che mắt địch. Hồi ấy là tháng 5 nên trời rất nóng, cứ 5 giờ sáng hai anh em lội xuống bàu để lấy cỏ lác, cỏ lùm trùm lên người để ẩn nấp là bắt đầu bị đỉa tấn công. Ông kể, từ tai trở xuống đến chân chỗ nào cũng có đỉa bám. Chịu đựng vấn nạn đỉa đã khổ, nhưng cứ tầm 9 giờ trở về chiều khi trời nắng to, nước dưới bàu cũng nóng mới là cực hình. Phải đến sau 6 giờ chiều hai anh em mới mò lên khỏi mặt nước, lúc đó cơ thể của ai cũng tấy đỏ như màu sơn của những chiếc máy cày MTZ.
Thoát khỏi vị trí ẩn nấp bên bàu nước, ông quyết định tìm về trên cánh đồng mà theo nhận định của ông kiểu gì cũng sẽ gặp các gia đình cơ sở ra đó để sản xuất. Một hôm, khi đang nằm bên bờ ruộng gần đám khoai lang thì ông phát hiện một chị cơ sở tên là Nguyệt ra hái rau. Ông gọi tên thì chị này quay lại, khi chị Nguyệt nhận ra ông thì nét mặt chị tái đi, chị hốt hoảng thông báo cho ông biết địa bàn này bây giờ ở bất cứ nơi đâu cũng có địch dò xét nên vô cùng nguy hiểm. Ông động viên chị Nguyệt là "cô hãy yên tâm, vấn đề quan trọng là làm sao Nguyệt phải liên lạc được với chị Hoa - Chi ủy và chị Bơi - Bí thư chi bộ để thông báo là anh đang ở đây, bằng mọi giá ngày mai ra đây cho anh gặp và cố gắng mai cho anh xin một ít cơm…".
Hôm sau, chị Hoa, chị Bơi cải trang thành người đi làm ruộng để mang cơm ra cho ông, mới đến nơi, vừa vứt chiếc ấm nước bên trong có cơm với muối mè là các chị nói ngay: "Không được, không thể ở đây được vì địch xung quanh đây quá nhiều, ở đây trước sau gì cũng chết…". Thế rồi, ông chọn một lùm cây gai gần với cánh đồng sát quốc lộ 1A làm nơi ẩn náu để tìm thời cơ liên lạc gây dựng cơ sở. Qua gần một tháng ở trong lùm cây gai đó, hai người cứ lần mò bắt được liên lạc và củng cố cơ sở ở làng Phò Ninh, một số cơ sở ở làng Thượng An và một cơ sở ở làng Bồ Điền. Nhưng lúc đó, ông xuất hiện ở cơ sở nào cũng bị các đồng chí ở đó van nài, xua đuổi vì tình hình quá nguy hiểm cho ông…
Một hôm khi ông cùng cơ sở của mình ở làng Bồ Điền đang làm một căn hầm bí mật thì có một giao liên mang thư mật của Huyện ủy đến bảo rằng ông phải thu xếp để trở về hậu cứ báo cáo tình hình cho ông Lê Tư Sơn - Bí thư Huyện ủy. Ông nhấn mạnh: Vào thời kỳ chiến tranh ác liệt đó, cán bộ của ta ai đã về được đồng bằng là được xem như một lần thoát chết nhưng từ đồng bằng mà trở lại hậu cứ thì còn nan giải hơn rất nhiều lần. Nguy hiểm là thế nhưng mệnh lệnh là phải thi hành.
Trở về hậu cứ, ông gặp lại người đồng đội là Trần Văn Minh vừa đi học trường Đảng của tỉnh về. Từ đó, ông tập trung lực lượng, bổ sung thêm một số cán bộ có kinh nghiệm đánh địch để tạo dựng phong trào trở lại địa bàn các xã Phong An, Phong Sơn để vừa hoạt động vừa đánh địch. Những năm tháng đó, Hồ Xuân Mãn đã cùng với đồng đội của mình tổ chức nhiều trận đánh "vô tiền khoáng hậu", đặc biệt có 2 vụ diệt 2 tên ác ôn khét tiếng mà Huyện ủy phát động nhiều năm chưa diệt được... Cứ thế, ông đã cùng đồng đội đánh địch cho đến ngày Huế được giải phóng 26/3/1975.
Sau ngày thống nhất, ông nhận nhiệm vụ mới là khai thác hồ sơ hậu chiến, rồi chuyển sang làm Đại đội phó - Đại đội tháo gỡ bom mìn để đưa dân trở về làng cũ. Năm 1976, tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sát nhập thành một đơn vị hành chính là tỉnh Bình Trị Thiên. Ông chuyển ngành và đi học Trường Nguyễn Ái Quốc, sau khi ra trường ông về làm Bí thư Huyện đoàn Phong Điền lúc ấy ông tròn 30 tuổi. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chánh Văn phòng Huyện ủy, Thường vụ huyện ủy - Trưởng ban Tuyên giáo, năm 1990 tham gia Tỉnh ủy với chức vụ Bí thư Huyện ủy Phong Điền, 1993 là Thường vụ Tỉnh ủy - Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy, năm 1995 là Phó bí thư Tỉnh ủy, năm 2000 là Bí thư Tỉnh ủy 2 nhiệm kỳ cho đến ngày nghỉ hưu.
Trong thời gian sau này, ông đã vinh dự được nhận thêm 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì, 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì và 1 Huân chương Chuyên án An ninh tôn giáo, 1 Huân chương Đại đoàn kết dân tộc, 1 Huân chương Lao động hạng Nhì, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tặng 3 Huân chương gồm 1 Huân chương Hữu nghị, 1 Huân chương Itxala hạng 2, 1 Huân chương Lao động hạng 2. Năm 2010, xét thành tích cả thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, ông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Giờ đây, ông nghỉ ngơi sau nhiều thập niên đã cống hiến sức mình và kể cả một phần máu thịt cho quê hương, đất nước… ngày ngày ông vui vầy bên bè bạn, cháu con. Đôi ba bữa ông lại trở về ngôi nhà cũ ở làng Phò Ninh để hương khói cho tổ tiên, ông bà, chăm sóc cây kiểng, hàn huyên với bạn bè, đồng đội cũ. Ông bảo rằng, ở đời làm người có danh phận cũng lắm thị phi, nhưng mình phải rộng lòng hỉ xả, bởi vì với những hạng người vô tâm hèn hạ thì họ vẫn đáng thương nhiều hơn là đáng trách…

  Phan Bùi Bảo Thy


Gửi anh Điều 43. Danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” để anh nghiên cứu so sánh với bản thành tích của anh Mãn để anh viết bài cho công luận yên tâm, tin tưởng rằng anh Mãn xứng đáng là một anh hùng để nhân dân noi gương, học tập.

Khi dân đã tin thì cả ngàn bài báo đã kích, bôi nhọ... cũng không có giá trị gì cả...dân đã tin là dân bảo vệ...không có dân bảo vệ làm gì còn một Hồ Xuân Mãn Ủy viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy... Anh Mãn nói nhiều lần và thực tế là như vậy.
Khi dân không còn niềm tin thì những bài viết của anh trở thành lạc lẽo...

Luật Thi đua, Khen thưởng

Điều 60
1. Danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng.



Nghị định Số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng:

Điều 43. Danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”

1. Danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có hành động anh hùng, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; có phẩm chất đạo đức cách mạng, là tấm gương mẫu mực về mọi mặt, đạt được các tiêu chuẩn sau:
a) Dũng cảm, mưu trí, hy sinh quên mình, đạt được thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, huấn luyện, trong giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, được Binh chủng, Quân chủng, Quân đoàn hoặc Quân khu tôn vinh, học tập;
b) Say mê nghiên cứu, có sáng kiến cải tiến hoặc giải pháp có giá trị; có công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt, được ứng dụng vào thực tiễn hoạt động quân sự, an ninh hoặc kinh tế, xã hội đem lại hiệu quả thiết thực; 
c) Có trình độ kỹ thuật, chiến thuật giỏi, chuyên môn, nghiệp vụ thành thạo; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; có công lớn trong việc bồi dưỡng về kỹ thuật, chiến thuật, chuyên môn, nghiệp vụ cho đồng đội; 
d) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh, có tác phong làm việc khoa học, kiên định lập trường trước mọi hy sinh, thử thách; nêu cao tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ, đoàn kết quân dân, là hạt nhân xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong tập thể;
đ) Đã được tặng thưởng “Huân chương Chiến công” hạng nhất hoặc “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng nhất (trừ trường hợp lập được thành tích đột xuất).
2. Tập thể có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là tấm gương mẫu mực về mọi mặt, đạt được các tiêu chuẩn sau:
a) Dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, là ngọn cờ tiêu biểu trong phong trào thi đua quyết thắng (đối với quân đội) hoặc phong trào thi đua thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, phong trào vì an ninh Tổ quốc (đối với Công an nhân dân), có nhiều đóng góp vào sự phát triển của ngành;
b) Dẫn đầu toàn quân trong phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ huy, lập nhiều thành tích trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới phục vụ chiến đấu, huấn luyện và công tác; 
c) Dẫn đầu trong việc bồi dưỡng, đào tạo về kỹ thuật, chiến thuật, về chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị cho cán bộ, chiến sỹ; quản lý tốt vũ khí và cơ sở vật chất kỹ thuật, an toàn tuyệt đối về người và tài sản; 
d) Dẫn đầu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu chấp hành kỷ luật, điều lệnh, điều lệ của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nêu cao tinh thần đoàn kết nội bộ, hợp tác, giúp đỡ và đoàn kết nhân dân, chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ; 
đ) Tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, tổ chức chính quyền, đoàn thể vững mạnh toàn diện; tích cực gương mẫu tham gia các phong trào ở địa phương nơi đóng quân, được chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương tin yêu; 
e) Đã được tặng thưởng “Huân chương Chiến công” hạng nhất hoặc “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng nhất (trừ trường hợp lập được thành tích đột xuất).
Theo luật Thi đua - Khen thưởng

"Mãn được tặng thêm 8 Huân chương, trong đó có 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì, 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì và 1 Huân chương chuyên án an ninh tôn giáo, 1 Huân chương Đại Đoàn Kết dân tộc, 1 Huân chương Lao động hạng Nhì, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 1 Huân chương Hữu nghị, 1 Huân chương Itxala."

Nhưng luật chỉ cần 01 (một) “Huân chương Chiến công” hạng nhất hoặc “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng nhất là đủ điều kiện "cần" về mặt thủ tục .

: Thì đủ thu tục tiếp tục đề nghị xét thành tích để công nhận danh hiệu AHLLVTND.
Không có: không xét, bí thư hay ai cũng vậy, bí thư càng phải làm gương không có ngoại lệ.

*Cố tình làm trái luật, là bằng chứng của việc chạy AHLLVTND đây! đây nì...

19 nhận xét:

  1. Dân đã tin Hồ Xuân Mãn là bí thư tốt, là anh hùng dân chỉ có ca ngợi.
    Anh Hữu Thu vào Google gõ "Nguyễn Bá Thanh" để thấy cẩ cộng đồng đang sùng sục ca ngợi anh ấy, đặt niềm tin vào Nguyễn Bá Thanh.
    Không ai có thể nói xấu, bôi nhọ Nguyễn Bá Thanh được.
    Trong khi đó Thủ Tướng lại có rất nhiều bài phê phán...

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hữu Thu viết;"Điều cần nói thêm là kể từ khi đất nước đổi mới, từ một Bí thư Huyện ủy, ông Hồ Xuân Mãn phấn đấu và trở thành Bí thư Tỉnh ủy 2 nhiệm kỳ"
      Không phải phấn đấu mà hất cẵng Ngô Yên Thi để trở thành bí thư tỉnh ủy.

      Xóa
    2. Ông Ngô Kha cho biết: "Hễ lần nào tỉnh mở Đại hội chiến sĩ thi đua thì lần đó đều có anh Hồ Xuân Mãn tham dự. Tôi biết rõ điều này vì tôi được phân công viết giúp bản báo cáo thành tích cho anh Mãn và nhiều người khác.
      Lần này có lẽ Hữu Thu viết bản thành tích AHLLVTND cho Mãn, hư bột hư đường vì cái thằng lobby này, hắn hư cấu tầm bậy tầm bạ mới sinh chuyện...dùng mấy thằng nịnh là chơi với con dao hai lưỡi...

      Xóa
    3. Té ra rứa, nó dốt đến nổi không tự viết được bản thành tích được, cháy nhà ra mặt chuột, tại sao từ lâu không nhận là mình dốt để đi học bổ túc văn hóa...còn tự khai là cử nhân luật?

      Xóa
    4. Không tự viết được bản thành tích thì mần răng mà hiểu được các nguyên lý cơ bản của Triết học Mác-Lênin, mần răng mà học cao cấp chính trị?
      Đề thầy-bài thầy-thi ở khách sạn?
      Dối trá tất...

      Xóa
    5. Làm gì có cái gọi là "Huân chương chuyên án an ninh tôn giáo", Hữu Thu lại theo thầy bốc phéc nữa rồi.
      Phải nghiên cứu lại "Luật Thi đua, khen thưởng".

      Xóa
  2. Hữu Thu viết thành tích của anh Mãn "Ngoài 3 lần tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua, ông Hồ Xuân Mãn từng đã có 33 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ, 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Huân chương Giải phóng các hạng và 1 Huân chương Quyết thắng, 3 huy hiệu Chiến sĩ thi đua, nhiều bằng khen và cả giấy chứng nhận danh hiệu "Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”."
    Nhiều đấy, nhưng phải có căn cứ, cán bộ ta còn người còn tự nhận là đảng viên, sau đó mới bị phát hiện là chưa kết nạp.
    Nhưng thành tích của anh Mãn có thỏa mãn điều 43,1,đ)...?
    đ) Đã được tặng thưởng “Huân chương Chiến công” hạng nhất hoặc “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng nhất (trừ trường hợp lập được thành tích đột xuất).
    Nếu anh Mãn chưa có đ) là chưa đủ tiêu chuẩn xét danh hiệu anh hùng.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. 3 bằng đại học chỉ là Đại học, 1 tiến sĩ là tiến sĩ.
      -Mãn có “Huân chương Chiến công” hạng nhất hoặc “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng nhất không?

      Xóa
    2. Hữu Thu viết: Đảng ta chủ trương khép lại quá khứ nên ông Lê Sáu không đồng ý nêu cụ thể. Suy nghĩ và hành động của ông Lê Sáu như vậy cộng thành tích rực rỡ thời chống Mỹ ông Lê Sáu nếu được phong anh hùng, trước hết Hồ Xuân Mãn cũng đồng tình.
      Còn Mãn xới tung, vạch lá tìm sâu phục vụ cho mưu đồ thăng tiến của Mãn, Ngô Yên Thi không ghi mấy tháng quân trường phải ngậm ngùi...chi tiết này chỉ có Mãn mới biết.
      Mãn xới tung còn thêm bớt quá khứ "anh hùng" cách đây hơn 40 năm nhưng dấm da dấm dúi để đồng đội phiền lòng...Mãn chỉ là "làm thư ký và bảo vệ" cho ông Lê Sáu thì Mãn không thể anh hùng hơn Lê Sáu được Phải không thưa anh Hữu Thu? Người ta nói Mãn đạp lên vai (lên đầu)thủ trưởng để vinh danh là vậy...anh hùng thật sự không ai làm như vậy...

      Xóa
    3. Như vậy công của Mãn trước hết là công của ông Lê Sáu...cướp công.
      Chưa có "có “Huân chương Chiến công” hạng nhất hoặc “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng nhất" là ăn gian công, nói cho dân dã một tí là chôm công, luồn lách là chỗ này đây anh Hữu Thu ạ...
      Người ta cũng đang bàn tán tài năng, nhân cách của anh hơn một tháng nay, thấy ánh mắt khinh bỉ của bạn bè không lẽ anh không cảm nhận được? Người cầm bút mà xiên xẹo tiếng để đời lâu lắm...

      Xóa
    4. Mãn kể: Thôn Phò Ninh có tôi, anh Đợi, anh Minh, anh Kiếm; ở thôn Vĩnh Hương có các anh: Quyền, Cầu, Rạm, Hùng. Hữu Thu đã tìm gặp những anh này để tìm hiểu cuộc sống, chơi, chiến đấu trong thời kì lâu lắm của Mãn?
      Mãn nhận có tham gia đánh trận Chợ Mỹ Chánh giết chết tên Triêm, trận đánh này làm gì có Mãn? Tổ đánh trận chợ Mỹ Chánh gồm: Dũng, Ben, Hiệu, Ngói, chính Dũng là người bắn chết Triêm...chắc chắn Mãn biết điều ấy, anh em vẫn còn sống, Mãn cướp công...trận đánh chợ Mỹ Chánh không có Mãn.

      Xóa
    5. Hưu Thu viết là nghe Mãn kể, cũng như bản thành tích của Mãn Ban thường vụ tỉnh ủy phải xét, và đó là một yêu cứng về mặt thủ tục...Mãn lươn lẹo...tổ chức thì nể nang...mà chủ tịch Hội đông thi đua khen thưởng lúc bấy giờ đi làm giáo viên không biết chi về chiến trường, bây giờ mới là ủy viên thường vụ...xác nhận nhưng có thẩm tra hay không là quyền của bí thư....ngày ấy những năm 70 của thế kỉ XX, Phan Văn Thuần tên ác ôn khét tiếng chống cộng, không diệt nó cơ sở của ta rất khó khăn trong hoạt động, tổ công tác được thành lập: Quát, Bé, Nhu, Tâm.
      Quát chỉ huy trận đánh.
      Kết quả Thuần bị giết, tên cận vệ của Thuần bị bắt cùng 2 tên chỉ điểm, thu toàn bộ vũ khí, bên ta anh em vô sự...trận đánh thắng đẹp.
      Trận đánh này từ khi chuẩn bị kế hoạch cho đến khai hỏa không có Hồ Xuân Mãn.
      Anh em còn sống đây, mẹ Trần Thị Con, Chi ủy viên Chi bộ Phong Sơn (mẹ vợ của Bác sĩ Dương Quát nay nghỉ hưu ở Đông Hà - QuảngTrị). Mời Hữu Thu về Phong Sơn, Phong An dân cách mạng kể cho mà viết cho chính xác...

      Xóa
    6. Thành tích lãnh đạo 3 huyện tiến công nổi dậy của Hồ Xuân Mãn giải phóng chổ nào? trong dòng thác chung ấy tất nhiên có chiến sĩ, có đồng bào, có Mãn. Sau 35 năm, những đồng chí lãnh đạo chiến dịch từ quân khu đến huyện nhiều người đã mất, nhiều người đã về hưu đang còn sống...còn biết lãnh đạo 3 huyện tiến công không phải là Mãn, anh hùng càng chưa đến phần Mãn...Những Lê Tự Đồng, Nguyễn Húng, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Vạn, Trần Anh Liên, Lê Sáu, Hoàng Lanh, Nguyễn Trung Chính, Lê Hồng Vinh, Nguyễn Biên, Dương Bá Nuôi, Bùi San, Nguyễn Đình Bảy, Vũ Thắng, Hoàng Đắc...đang là cây đa cây đề so với Mãn.
      Năm 1975, Võ Nguyên Quảng oai vậy đấy nhưng mới Đại úy, huyện đội gần... trưởng thôi, Mãn chỉ là chú du kích nhỏ...có thể chiến đấu lì lợm hơn anh em, nhưng Mãn làm gì để đủ tầm lãnh đạo 3 huyện tiến công nổi dậy...
      Muốn viết cho chắc tay Hữu Thu phải yêu cầu Mãn cho xem bản thành tích có phê duyệt ... kết hợp đi tìm thực tế ở cán bộ lãnh đạo, chiến sĩ thời ấy để nắm thêm...đành rằng các anh đã già có lẩm cẩm nhưng qua nhiều người thì bản chất sự việc được phơi bày...Mãn muốn bốc phét cũng khó...

      Xóa
    7. Hồ Xuân Mãn xem trận đánh giết tên Hoàng Sớm ấp trưởng ấp Phò Ninh Năm 1972 là thành tích để được tôn vinh anh hùng thì đây là một điều tệ hại, trận ấy người chỉ huy bị khiển trách, lãnh đạo khiển trách người chỉ huy đến nay vẫn còn sống, mục đích của trận đánh là "Diệt Hoàng Sớm", yêu cầu đánh nhanh rút gọn.
      Trận ấy không thể là "công" mà là "tội mới "đúng". Tổ tam tam (Quảng, Hữu, Mãn) tấn công vào bữa kị, nhà bà con của Mãn, có ông nội Mãn đang ăn kị, diệt được Hoàng Sớm nhưng kéo theo 17 dân lành thương vong (9 người bà con bị chết, 8 người bị thương, trong đó có 2 cơ sở của ta và ông nội của Mãn).
      Chiếu Điều 60 Luật Thi đua, Khen thưởng
      1. Danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng.
      Trận đánh nầy tổn thất cả quân sự lẫn chính trị...Mãn còn kể công là thành tích để trở thành anh hùng thì quá đáng, dân Phò Ninh còn nhiều người nhớ...
      Trần Văn Quảng chỉ huy trận nầy. Huyện đội lúc bấy giờ còn nhớ trận này...một chiến tích không vui.
      Ngày này trong thôn có thêm 10 cái kị...bà con quen thuộc của Mãn. Không thể là “thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu” được,
      Trận này có tính khủng bố, chỉ làm cho dân sợ Việt cọng mà thôi. Mãn có tội...khiển trách như đã...là quá nhẹ.

      Xóa
    8. Một quá khứ cần khép lại, xới lên làm chi nữa Mãn ơi? Nguyễn Bá Thanh nhìn về phía trước để lãnh đạo dân, Mãn chạy lui 40 năm để làm anh hùng, làm chi cho mang tiếng rứa Mãn ơi?

      Xóa
  3. So với luật là căn cứ cứng chưa đạt tiêu chuẩn, bây giờ Hữu Thu thử so sánh công lao của anh Mãn có nổi trội hơn các anh được kể tên cùng chiến đấu với anh Mãn: Hồ Văn Ninh,Lê Việt Hà,Trần Văn Minh, Lê Sáu...? anh Mãn có xứng đáng hơn các vị đang còn sống này không? có được họ tôn vinh không? bởi vì nhiêu anh đang nói: Mãn anh hùng thì cả huyện Phong Điền anh hùng...

    Trả lờiXóa
  4. Tốt nhất là không cần nói nhiều, nếu Mãn không cướp công đồng đội, không tưng công, không khai khống thành tích thì cứ ngang nhiên đăng bản thành tích của anh hùng cho công chúng ngưỡng mộ là xong...cần chi phải viết cho nhiều thêm mất uy tín...Bản thành tích không những được công khai mà còn để cho nhân dân kiểm chứng, người ta mới thừa nhận và học tập...có phải tài liệu mật của quốc gia đâu mà dấu như mèo dấu cứt...thói thường càng dấu người ta còn tò mò hỏi thăm...có chi che mắt được nhân dân? Hữu Thu không làm được điều đó thì nên quẳng bút đi...càng viết thiên hạ càng khinh...

    Trả lờiXóa
  5. Mãn cả hầm rượu kiễm vài chai chivas 38 hoặc 45 cho anh em hưởng sái với, của thiên trả địa, đoạn này mà không xin thì chờ khi mô? Ông giỏi lobby thật...chào thua...tài mồm mép của anh.

    Trả lờiXóa
  6. Phát biểu tại hội nghị tổng kết công tác ngành Công an TP Đà Nẵng hôm 3/1/2013, tân Trưởng ban Nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh khẳng định:

    “… Không khí dân chủ trong xã hội ngày càng tăng lên, người dân có nhiều cơ hội bày tỏ chính kiến của mình. Ngoại trừ những thế lực thù địch thực hiện âm mưu chống phá, bịa đặt, vu khống…, thì cần chú ý đến tiếng nói của các tầng lớp nhân dân… Tôi đứng ở đây nhìn xuống dưới đó (hội trường) làm sao nhận ra hết các đồng chí được. Nhưng các đồng chí ở dưới đó nhìn thấy hết. Tôi ngoẹo bên trái, ngoẹo bên phải các đồng chí đều thấy hết. Nhân dân cũng vậy, họ biết hết, vấn đề là họ có nói ra hay không mà thôi. Ông sống ra sao, vợ con làm gì, trợ lý làm gì… nhân dân biết hết”.

    Trả lờiXóa